Tứ Trấn Nội Kinh

Tứ Trấn Nội Kinh

Vị trí Thăng Long tứ trấn trên bản đồ Hà Nội

Vị trí Thăng Long tứ trấn trên bản đồ Hà Nội

Mãn nhãn Lễ rước kiệu đền Bạch Mã đón nhận bằng di tích Quốc gia đặc biệt. Ảnh: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Rất đông du khách và người dân địa phương đến ngôi đền nằm trong Thăng Long tứ trấn này để chiêm bái, cầu may mắn và bình an cho cả năm.

2. Đền Kim Liên trấn giữ phía Nam, thờ thần Cao Sơn Đại Vương

Đền Kim Liên là ngôi đền linh thiêng trấn giữ phía Nam, nơi thờ phượng thần Cao Sơn, một trong 100 người con của thủy tổ Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo chân mẹ lên núi, ông đã giúp Sơn Tinh đánh bại Thủy Tinh để mang lại giang sơn ấm no và thái bình cho người dân.

Cao Sơn Đại vương cũng là vị thần bảo hộ, phụ trợ nhân dân chống lại thiên tai, cường địch, giữ gìn sự bình yên của cuộc sống. Du khách đến trấn phía Nam trong Thăng Long tứ trấn để cầu mọi việc xuôi chèo mát mái.

Theo tín ngưỡng dân gian, thần Cao Sơn là một người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Sau khi theo mẹ lên núi đã có công trong việc bảo vệ, trấn giữ xua đuổi tà ma cho dân chúng phía Nam thành Thăng Long.

Sau đó, ngài xin vua cha về vùng đất hoang vu lập nghiệp (nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội). Với mong muốn ghi nhớ công ơn, sau khi ngài mất, nhân dân đã lập đền để thờ thần Cao Sơn. Theo văn bản cổ nhất có niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1510) có ghi tên di tích “Cao Sơn Đại Vương Thần Từ”.

So với ba ngôi đền còn lại, đền Kim Liên được cho là hoàn thiện muộn nhất, vào thế kỷ 16-17 từ khi được khởi công sau sự kiện dời đô. Qua thời gian, dân làng Kim Liên xây thêm cổng tam quan cạnh hồ Kim Liên. Nhiều công trình bổ trợ cũng đã được xây dựng và ngôi đền dần kiêm luôn chức năng của một ngôi đình làng.

Cổng đình và cửa chính của chính điện đều quay mặt về hướng Tây. Kiến trúc của đình gồm hai phần: phần trước gò có cổng cột, hai gian hai bên sân gạch rộng rãi và kiến trúc chính của di tích nằm ở khuôn viên.

Đình chính gồm: Nghi môn, Đại bái, Hậu cung. Nghi môn là ngôi nhà ba gian. Từ ngoài vào trong có cột cổng, đỉnh cột đặt gạch gốm úp vào nhau, bên dưới treo đèn lồng, trong có tứ linh được chạm khắc khéo léo, tinh xảo.

Kiến trúc chính của khu di tích gồm ba cổng, một ngôi đền thờ thần. Đi hết thềm, bạn sẽ qua chín bậc gạch cao xây bằng gạch lớn thời Lê Trung Hưng, nối kiến trúc ngoài trời với kiến trúc chính. Hai bên bậc tam cấp, sát sân gạch có hai con cá sấu đá có từ thời Lê. Hết bậc tam cấp là ba lối vào đền Cao Sơn.

Ao Kim Liên, nơi gắn liền với câu chuyện "nghề thợ cạo"

Chính điện có hình chữ đinh rất độc đáo. Hậu cung là ngôi nhà có ba gian dọc, xây bằng gạch, lợp mái ngói. Nằm ở gian cuối cùng của Hậu cung là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai vị nữ thần giao hòa.

Ngoài kiến trúc ấn tượng, ngôi đền nằm trong Thăng Long tứ trấn này còn lưu giữ nhiều di vật: 33 bản sắc phong các thời Lê, Nguyễn, tấm bia đá "Cao Sơn Đại Vương Thần Từ Bi Minh" năm 1510... Đây đều là những bảo vật quý hiếm có giá trị lịch sử cao.

Văn bia đá được chạm trổ tinh xảo

Nằm trong Thăng Long tứ trấn, cùng kiến trúc độc đáo cũng như sở hữu nhiều di vật quý hiếm, đền Kim Liên được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 9/1/1990.

Lễ hội đền Kim Liên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hằng năm. Vào ngày này, dân làng lại mở hội truyền thống, nghe tế lễ để báo đáp công lao của thần. Bạn có thể đến đây vào bất cứ ngày nào để tham quan.

Mảnh đất Hà Nội nghìn năm văn hiến với biết bao vẻ đẹp làm xao động lòng người, từ những vẻ đẹp hết sức bình dị, cổ kính của những ngôi chùa đến những công trình kiến trúc đồ sộ từ lịch sử xa xưa đến nay vẫn còn vẹn nguyên bao giá trị đẹp đẽ của nó. Hà Nội không chỉ là Thủ đô của Việt Nam mà còn là nơi giao thoa, hội nhập của biết bao nền văn hóa khác, nơi in dấu biết bao công trình văn hóa lịch sử mang đậm nét Việt thời xa xưa.

Trong bao vẻ đẹp đó, có những địa danh dường như đã trở thành nơi in dấu bao vẻ đẹp linh thiêng của chốn kinh kì về một Thăng Long thời xưa, đó là những vẻ đẹp của một “Tứ trấn Hà Nội” mang đậm nét văn hóa lịch sử, là biểu tượng của Thăng Long ngàn năm văn hiến.

Tìm hiểu về “Tứ trấn Hà Nội”, ta không khỏi ngạc nhiên bởi vẻ đẹp của nó từ lịch sử ra đời gắn với những điển tích, thần thoại đến lối kiến trúc cổ kính nhưng vẫn không kém phần lộng lẫy vẫn được giữ gìn giữa lòng Hà Nội.

“Tứ trấn Hà Nội” ra đời từ rất sớm, gắn với việc ra đời của kinh đô Thăng Long thời nhà Lý những năm 1010, đó là nơi thờ bốn vị thần trấn giữ bốn phương huyết mạch trên mảnh đất Thăng Long để ngày đêm bảo vệ cho kinh thành Thăng Long xưa và Thủ đô Hà Nội ngày nay luôn được yên bình. Đó là đền Bạch Mã trấn ở phía Đông, thờ thần Long Đỗ; đền Voi Phục trấn ở phía Tây, thờ thần Linh Lang Đại Vương; đền Kim Liên trấn ở phía Nam, thờ thần Cao Sơn Đại Vương; và đền Quán Thánh trấn ở phía Bắc, thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ.

Đây còn được coi là bốn ngôi đền linh thiêng bậc nhất chốn kinh kì chính bởi lịch sử hình thành và vẻ đẹp văn hóa của nó trong tín ngưỡng của người Việt Nam ta, đó là nét độc đáo về tâm linh Thăng Long, là biểu tượng vẻ đẹp văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Việt, là nơi ta có quyền tự hào về lịch sử cha ông ta thời xưa.

Đền Bạch Mã được xây dựng từ thế kỉ thứ 9, là nơi thờ thần Long Đỗ - vị thần có gốc Hà Nội cổ, ngôi đền trấn giữ phía Đông kinh thành Thăng Long xưa tọa lạc ở địa phận thuộc phường Hà Khẩu, tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, Thăng Long, nay là số 76 phố Hàng Buồm, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Đền Bạch Mã là một trong “Tứ trấn Hà Nội”, là ngôi đền có lịch sử xây dựng sớm nhất trong Tứ Trấn. Tương truyền khi vua Lý Công Uẩn dời đô ra thành Đại La vào năm Canh Tuất 1010 định xây thành mới nhưng lần nào thành cũng bị lở, vua bèn sai người đến cầu đảo thì thấy có một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, ngựa trắng đi đến đâu để lại vết chân đến đó, sau đó thì quay trở lại vào trong đền.

Thấy vậy, vua liền cho xây thành đắp đê theo đúng dấu chân ấy và thành công, do đó đền mới lấy tên là Đền Bạch Mã (đền ngựa trắng) và tôn thờ thần Long Đỗ làm Thành Hoàng phía Đông của kinh thành Thăng Long. Trải qua bao lần tôn tạo, ngôi đền tuy đã có sự thay đổi nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc vốn có của nó.

Hình ảnh ngựa trắng được thờ bên trong đền từ lâu đã trở thành biểu tượng rất linh thiêng của ngôi đền, được dân chúng bao đời tôn sùng, kính phục. Bên trong đền còn là nơi lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị cùng nhiều kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, đặc biệt là hình ảnh 15 tấm văn bia ghi lại những điển tích, thần thoại trong việc xây dựng đền, những nghi lễ cúng thần và các lần trùng tu tôn tạo lại đền rất chi tiết.

Đền Bạch Mã không chỉ là ngôi đền thờ vị thần trấn giữ phía Đông kinh thành Thăng Long mà còn là nơi ghi dấu lại nét đặc trưng của phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn với quy mô kiến trúc khá lớn, quay theo hướng Nam, được bố trí hết sức hài hòa với nghi môn, phương đình, đại bái, cung cấm, thiêu hương, nhà hội đồng ở phía sau đền.

Điểm nổi bật của nét kiến trúc bên trong ngôi đền là toàn bộ khung nhà gỗ với hệ thống cột gỗ lim lớn, bộ đỡ mái đều được làm theo đúng kiểu “giá chiêng chồng rường con nhị”, nét chạm khắc tỉ mỉ, chắc, khỏe đúng kiểu thời nhà Nguyễn được tô đậm.

Trong không gian linh thiêng ấy của đền Bạch Mã, giữa những nhộn nhịp của đất Hà Thành, dường như đền Bạch Mã đã trở thành vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt vốn có của phố cổ, trở thành điểm đặc sắc chỉ riêng ở phố cổ ta mới thấy. Đó không chỉ là nơi con người tìm về với vẻ đẹp yên bình mà còn hiểu biết thêm về những thần thoại xưa, nơi giao thoa của nhiều nguồn văn hóa, nét văn hóa dân tộc, hội tụ nhiều nét đặc trưng riêng biệt.

Hàng năm, đền thường tổ chức lễ hội vào ngày 12 và 13 tháng 2 âm lịch hàng năm và thường có đoàn rước kiệu truyền thống mặc những bộ trang phục truyền thống với nhiều màu sắc lộng lẫy. Lễ hội của đền được tổ chức với ý nghĩa tiễn mùa đông qua và đón mùa xuân mới, mong sao cho mùa màng bội thu, nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc, đó chính là sự dung hòa giữa văn hóa tín ngưỡng dân gian và nghi thức cúng cung đình ảnh hưởng từ Đạo giáo, chính sự dung hòa đó đã tạo nên nét đặc sắc trong lễ hội đền Bạch Mã.

Vẻ đẹp của đền Bạch Mã-Đông trấn dường như đã trở thành một biểu tượng không thể thiếu ở phố cổ Hà Nội, trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử nhưng ngôi đền ấy vẫn đứng vững, hiên ngang, bảo vệ cho kinh thành Thăng Long xưa và thủ đô Hà Nội ngày nay mãi yên bình.

Nằm giữa những tán cây cổ thụ, sừng sững, uy nghi trải qua hàng ngàn năm lịch sử, thuộc địa phận phường Cầu Giấy, Ba Đình, nằm bên công viên Thủ Lệ, đền Voi Phục được biết đến là một trong “Tứ trấn Hà Nội”.

Được xây dựng năm 1065 trên một khu gò đất cao thuộc vùng đất của trại Thủ Lệ, là nơi thờ Hoàng tử Linh Lang con vua Lý Thái Tông và bà phi thứ chín Dương Thị Quang. Hoàng tử Linh Lang là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược và đã hi sinh trên phòng tuyến sông Cầu năm 1076, sau khi mất được người dân Thủ Lệ lập đền thờ và được nhà vua sắc phong là Linh Lang đại vương thượng đẳng phúc thần cai quản Tây trấn để giữ bình yên cho phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.

Sở dĩ đền còn có tên gọi là đền Voi Phục vì phía trước đền có đắp hai con voi quỳ gối, tương truyền khi hoàng tử Linh Lang đi đánh giặc thì có con voi quỳ xuống thuần phục người đưa hoàng tử lên trên vành voi để ra đánh giặc, con voi nó biết coi trọng người tài giúp nước, biết phục xuống đưa lên bởi vậy mới có hình ảnh hai con voi quỳ phía trước cổng đền và được người dân gọi là đền Voi Phục.

Trong đền còn có hai pho tượng được làm bằng đồng và có hòn đá to có vết lõm, là nơi Hoàng tử Linh Lang nằm gối đầu lên rồi hóa thành con giao long trườn xuống hồ. Mặc dù đã trải qua khá nhiều lần trùng tu, kiến trúc ngôi đền cũng đã thay đổi khá nhiều, mặc dù vậy ngôi đền vẫn giữ được vẻ uy nghi, sự linh thiêng vốn có.

Là một trong những ngôi đền linh thiêng bậc nhất chốn kinh kì thuộc địa phận “Tứ trấn”, trải qua thời gian, kiến trúc của ngôi đền cũng đã dần được nhân dân hóa, dần xâm nhập vào các lễ hội, hoạt động sinh hoạt của người dân bên hồ, vào ngày mồng 9 và mồng 10 tháng 2 âm lịch hàng năm đền thường tổ chức lễ hội mang tính chất mở với sự tham gia của du khách thập phương mang ý nghĩa cầu bình an, tiền tài, danh vọng, hình ảnh lễ rước kiệu còn mang ý nghĩa kiệu thánh đi vi hành ban lộc ban phúc cho nhân dân.

Ngôi đền là một đền thiêng trấn phía Tây kinh thành Thăng Long, ngoài những ý nghĩa trấn yểm, bảo vệ cho kinh thành Thăng Long xưa luôn được bình yên, đền còn là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa khác nhau xuyên suốt dòng chảy văn hóa lịch sử và đã trở thành vẻ đẹp của Hà Nội cần được giữ gìn và bảo tồn.

Đền Kim Liên trước thuộc địa phận phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Ngôi đền được biết đến là một ngôi đền thiêng trong hệ thống “Tứ trấn Hà Nội” trấn giữ phía Nam kinh thành Thăng Long xưa. Đền thờ thần Cao Sơn đại vương-người đã có công giúp vua Lê Tương Dực dẹp loạn, khôi phục nhà Lê và được nhà vua lập đền thờ để tương nhớ.

Được khởi dựng từ đầu triều lý, khoảng thế kỉ 17 thời vua Lý Thái Tổ, ngay từ những buổi đầu dựng nước, vua Lý Thái Tổ đã tìm thấy niềm tin vào kinh thành bền vững, thấy các hướng đều có các vị phúc thần che chở, bảo vệ, bởi vậy nên đã cho xây dựng đền ở nơi này.

Tương truyền, thần Cao Sơn còn là vị thần núi, có công trấn giữ sơn mạch nước Việt tự ngàn xưa. Đền được xây dựng trên một gò đất cao ở phía Đông, cổng đền hướng về phía Tây, bước từ sân lên phải qua chín bậc gạch, hai bên thềm là hai con sấu đá có niên đại từ thời nhà Lê, tam quan được xây giống kiểu nhà hoàn chỉnh có bốn cột trụ ở bốn góc tường. Kiến trúc của tam quan rất đặc biệt, được chạm khắc hết sức tinh xảo với nhiều lớp hình tứ linh đẹp đẽ.

Trong đền còn có tấm bia đá đen “Cao Sơn Đại vương Thần từ Bi minh” ghi lại công lao của thần Cao Sơn trong việc ngầm giúp vua dành lại ngai vàng từ tay ngoại thích và hệ thống 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, đây chính là di vật quan trọng nhất tại đền Kim Liên mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Mặc dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, chịu sự tàn phá của thời gian, đến nay đền đã được tôn tạo, phục chế lại và vẫn còn đậm nét kiến trúc thời xưa. Hàng năm vào ngày 16 tháng 3 âm lịch, đền thường tổ chức lễ hội gồm các hoạt động tế lễ cùng những trò chơi dân gian thu hút đông đảo người dân tham gia.

Là ngôi đền nằm ở giữa ngã tư đường Thanh Niên với đường Quán Thánh nổi tiếng linh thiêng, thuộc một trong “Tứ trấn Hà Nội”, đền Quán Thánh trấn giữ phía Bắc kinh thành Thăng Long xưa có tên chữ là Trấn Quán Vũ, thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ-vị thần có công diệt trừ yêu quái. Đền được xây dựng vào năm 1010 dưới triều vua Lý Thái Tổ, là một ngôi đền mang nét kiến trúc khá đẹp, độc đáo.

Truyền thuyết xưa kể rằng Huyền Thiên Trấn Vũ là một vị thần cai quản phương Bắc, giúp nhân dân trừ tà ma, yêu quái và được các thời vua tin tưởng, thường đến để cầu mưa mỗi khi có hạn hán xảy ra.

Là một ngôi đền với lối kiến trúc khá độc đáo, hàng năm thu hút rất đông đảo người dân đến tham quan, ngay ở cổng đền còn thờ hai con voi ở hai bên, trong đền có thờ một pho tượng đồng Huyền Thiên Trấn Vũ cao lớn nặng 4 tấn, cao khoảng 3,96 mét, mặt vuông, râu dài, mắt nhìn thẳng về phía trước, tóc xõa, đầu không đội mũ, mặc áo đạo sĩ, ngồi trên một tảng đá lớn, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm có rắn quấn và chống lên lưng vị rùa. Đó không chỉ là một pho tượng thiêng mà còn được đánh giá là một công trình kiến trúc độc đáo-nghệ thuật đúc đồng và sự tài hoa của những người nghệ nhân Việt Nam cách đây ba thế kỉ về trước.

Đền Quán Thánh không chỉ là một công trình độc đáo về mặt kiến trúc mà còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa của người Hà Nội xưa. Đến nay, vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm, đền đều tổ chức lễ hội để người dân tưởng nhớ người đã có công diệt trừ tà ma, yêu quái để người dân luôn được bình yên.

“Tứ trấn Hà Nội” không chỉ là những di tích lịch sử ghi dấu lại một thời kì lịch sử oai hùng của cả dân tộc mà dường như nơi đây đã trở thành biểu tượng không thể thiếu cho sức sống của Hà Nội, cho đời sống văn hóa và tâm linh người Việt. Có thể nói, trải qua hàng ngàn năm lịch sử nhưng giá trị của “Tứ trấn” vẫn còn vẹn nguyên. Tuy mỗi đền thờ một vị thần khác nhau, mang những nét kiến trúc độc đáo, riêng biệt nhưng bốn ngôi đền đều đã trở thành một phần không thể thiếu của nét văn hóa đất Hà Thành, “Tứ trấn” vẫn ngày đêm trấn giữ để bảo vệ cho kinh thành Thăng Long xưa và Thủ đô Hà Nội ngày nay ngày càng yên bình, phồn vinh.