Ngôn Ngữ Của Người Câm

Ngôn Ngữ Của Người Câm

Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng để con người giao tiếp với nhau. Học ngôn ngữ của người câm điếc sẽ đơn giản nếu bạn có cách học phù hợp. Bài viết  này, Travycare sẽ giới thiệu cho bạn, những cách học ngôn ngữ này hiệu quả.

Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng để con người giao tiếp với nhau. Học ngôn ngữ của người câm điếc sẽ đơn giản nếu bạn có cách học phù hợp. Bài viết  này, Travycare sẽ giới thiệu cho bạn, những cách học ngôn ngữ này hiệu quả.

Một vài ký hiệu ngôn ngữ cơ bản cho người bị câm điếc

Dưới đây là một số ký hiệu ngôn ngữ cơ bản trong ngôn ngữ ký hiệu Mỹ (American Sign Language - ASL) mà bạn có thể bắt đầu học để giao tiếp với người câm điếc.

Một vài ký hiệu ngôn ngữ cơ thể của người bị câm điếc

Hãy lưu ý rằng ASL có thể khác biệt với ngôn ngữ ký hiệu được sử dụng ở các quốc gia khác. Dưới đây chỉ là một số ví dụ và không đầy đủ:

Xin chào: Đưa tay lên và mở ngón

Tôi: Chạm ngón áp út của bàn tay vào ngực.

Bạn: Chạm ngón cái của bàn tay vào ngực.

Vui: Lắc cả hai bàn tay lên và xuống.

Buồn: Kéo cả hai bàn tay xuống.

Cảm ơn: Đưa bàn tay lên và đặt nó vào cổ, sau đó kéo xuống.

Xin lỗi: Kéo bàn tay bằng cách giữ ngón tay cái lên trên trán và làm hình chữ L.

Tên của bạn: Chỉ vào bản tên của bạn sau đó làm dấu hỏi.

Thời gian: Trỏ vào cổ tay và sau đó chỉ vào đồng hồ để biểu thị giờ.

Điện thoại di động: Làm dấu bằng tay giữ điện thoại tới tai và miệng.

Học: Chạm ngón áp út vào trán và sau đó kéo lên.

Thành phố: Trỏ vào một điểm trên bàn tay và sau đó làm dấu hỏi.

Có thật sự cần phiên dịch cho người bị câm điếc?

Có cần phiên dịch cho người câm điếc

Việc sử dụng phiên dịch cho người câm điếc sẽ hữu ích trong nhiều tình huống. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng mức độ cần thiết của phiên dịch phụ thuộc vào tình huống cụ thể và nhu cầu của người câm điếc.

Dưới đây là một số tình huống mà phiên dịch có thể cần thiết:

Nhà và Trong Gia Đình: Trong môi trường gia đình, việc có một người phiên dịch có thể giúp người câm điếc kết nối với gia đình và bạn bè, tham gia vào cuộc trò chuyện và thông tin gia đình.

Công cộng: Trong các tình huống xã hội, như gặp gỡ bạn bè tại các sự kiện hoặc nhà hàng, phiên dịch có thể giúp họ giao tiếp dễ dàng và không gặp trở ngại.

Trong Trường Học: Trong môi trường giáo dục, việc có phiên dịch sẽ giúp hỗ trợ người câm điếc trong việc tham gia vào các lớp học, tương tác với giáo viên và bạn bè giúp hiểu bài giảng hơn.

Trong Các Khóa Học Nâng Cao: Với các khóa học đào tạo hoặc đại học, việc có phiên dịch chuyên nghiệp sẽ giúp họ tiếp cận kiến thức một cách đầy đủ và hiệu quả.

Trong Môi Trường Làm Việc: Trong môi trường làm việc, việc có phiên dịch giúp người câm điếc tương tác với đồng nghiệp, hiểu rõ yêu cầu công việc và tham gia vào các cuộc họp, dự án của công ty.

Trong Các Buổi Họp và Đàm Phán: Trong các buổi họp và đàm phán việc có phiên dịch giúp người câm điếc không bị cách biệt khỏi quyết định và thảo luận.

Trong Hệ Thống Y Tế: Trong các cuộc họp với bác sĩ và chuyên gia y tế, có phiên dịch giúp họ đưa ra cách điều trị phù hợp, đồng thời hiểu đầy đủ về tình hình sức khỏe của mình.

Trong Thủ Tục Pháp Lý: Trong các trường hợp liên quan đến luật pháp có phiên dịch sẽ giúp người câm điếc hiểu rõ quyền lợi của mình và tham gia vào các cuộc họp với luật sư hoặc trong tòa án.

Việc cung cấp phiên dịch không chỉ là việc giúp người câm điếc tiếp cận thông tin mà còn là việc đảm bảo quyền lợi và tham gia đầy đủ trong xã hội và cuộc sống hàng ngày của họ.

Như vậy, bài viết này Travycare đã bật mí cho bạn tất cả Những điều cần biết về ngôn ngữ của người câm điếc. Hy vọng rằng, với các thông tin phía trên sẽ giúp bạn đọc phần nào hiểu hơn ngôn ngữ của người câm điếc được sử dụng như thế nào.

Nếu có vấn đề thắc mắc đừng ngần ngại liên hệ qua số hotline của chúng tôi để được tư vấn nhiệt tình nhất nhé!

“Không chỉ các vùng miền Nam, Trung, Bắc mà ngay cả ký hiệu ngôn ngữ dành cho trẻ câm điếc trong cùng TP.HCM cũng khác nhau. Điều này ai cũng biết, cũng thấy nhưng đến nay vẫn chưa thể thống nhất được” - bà Trần Thị Nhiễu, chuyên viên phụ trách các dự án thuộc Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi TP.HCM, nhìn nhận.

Tại Trường Chuyên biệt khiếm thính Hy Vọng (Bình Thạnh, TP.HCM), ký hiệu cụm từ thêm vào cho đầy đủ được một em học sinh diễn tả theo từng chữ thêm, vào, cho, đầy đủ. Để diễn tả từ thêm, lòng bàn tay trái em để ngửa trước bụng, lòng bàn tay phải đập đập lên. Chữ vào thì lòng bàn tay trái cũng để ngửa trước bụng, ngón trỏ tay phải hướng vào trong. Lòng bàn tay trái cũng để ngửa trước bụng, lòng tay phải để ngửa đưa về phía trước là chữ cho. Còn đầy đủ thì các ngón tay phải bụm lại, riêng ngón tay trỏ giơ cao nhưng cong lại, tượng trưng cho chữ đ.

Riêng cụm từ ngộ độc thực phẩm, em cũng diễn tả ký hiệu từng chữ. Diễn tả từ ngộ, em hơi chụm bàn tay trái và bàn tay phải lại, để trước bụng rồi xoay xoay. Còn từ độc thì chụm bàn tay phải lại, ngón giữa hơi nhô và đặt lên cằm. Hai chữ thực phẩm được em diễn tả bằng ký hiệu chữ t và p.

Trong khi đó, cụm từ thêm vào cho đầy đủ được một học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Anh Minh (Bình Thạnh) diễn tả khác ở chữ vào và cho. Riêng cụm từ ngộ độc thực phẩm thì không diễn tả riêng từng chữ mà thực hiện cùng lúc ba động tác. Em đưa hai bàn tay ra trước, các đầu ngón tay chụm lại, tượng trưng chén cơm. Tiếp theo, một tay em đặt ngửa trước ngực, tay còn lại đưa vào miệng như đang ăn cơm. Sau đó em đặt ngón tay trỏ lên môi, hàm ý cho biết bị ngộ độc sau khi ăn cơm.

Ký hiệu ngôn ngữ không thống nhất

Sau khi nghe chúng tôi thuật lại những ký hiệu ngôn ngữ của cụm từ thêm vào cho đầy đủ và ngộ độc được học sinh hai trường nói trên diễn tả, cô Trần Thị Ngời, Hiệu trưởng Trường Khuyết tật thính giác Hy Vọng 1 (quận 1, TP.HCM), nói: “Ký hiệu ngôn ngữ trường tôi cũng khác”.

Học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Hy Vọng diễn tả ký hiệu từ “vào”...

... Khác với ký hiệu ngôn ngữ của  học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Anh Minh.

Từ “độc” trong cụm từ “ngộ độc thực phẩm” được học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Hy Vọng diễn tả...

... Không giống với học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Anh Minh. Ảnh: TRẦN NGỌC

“Trước giải phóng, miền Nam có trường dạy trẻ câm điếc ở Lái Thiêu (Bình Dương) và tôi là giáo viên của trường này. Đến năm 1985, tôi mở trường dạy trẻ câm điếc đầu tiên ở TP.HCM và phổ biến những ký hiệu ngôn ngữ cho giáo viên. Sau đó TP.HCM mở thêm nhiều trường dành cho trẻ câm điếc, đón nhận sự hỗ trợ của những tổ chức ngoài nước. Các trường cóp nhặt ký hiệu ngôn ngữ của họ rồi áp dụng. Tình trạng này kéo dài nên hiện nay nhiều ký hiệu ngôn ngữ cho trẻ câm điếc không thống nhất nhau” - cô Ngời nói.

Theo cô Ngời, một giáo viên dạy trẻ câm điếc trường này khi qua trường khác phải được tập huấn lại ký hiệu ngôn ngữ mới có thể tiếp tục đứng lớp. Các em câm điếc của các vùng, miền muốn giao lưu và hiểu nhau phải tốn khá nhiều thời gian.

Nhiều hội thảo nhằm đưa ra một ký hiệu ngôn ngữ thống nhất để dạy các em câm điếc đã được tổ chức nhưng vẫn chưa thành công. Trong đó có nguyên nhân do thói quen của từng vùng, miền. “Ví dụ, ký hiệu ngôn ngữ từ chào. Các đại biểu không đồng tình ký hiệu “giơ tay” của Hà Nội hoặc “giở nón” của Hải Phòng mà lại đồng thuận ký hiệu “khoanh tay cúi đầu” của TP.HCM và thống nhất lấy làm ký hiệu chung để sử dụng khi giảng dạy. Thế nhưng trong thực tế, do thói quen nên các vùng vẫn sử dụng ký hiệu của mình, ít dùng ký hiệu chung” - cô Ngời nói rõ.

Gắn bó nhiều năm với trẻ em khuyết tật, trong đó có cả trẻ câm điếc, bà Trần Thị Nhiễu cho biết ngoài những ký hiệu từ ngữ trừu tượng khác nhau như nói ở phần trên, những ký hiệu từ ngữ cụ thể của con người cũng khác nhau. Nói đến đàn ông, có em diễn tả hai ngón tay đặt dưới cổ áo ám chỉ chiếc cà vạt. Cũng có em đặt hai ngón tay trỏ trên miệng, hàm ý nói bộ râu. Nói đến phụ nữ, có em đặt hai ngón tay lên lỗ tai hàm ý đeo bông tai. Cũng có em xoa xoa đôi môi, ám chỉ đang tô son.

Theo bà Nhiễu, các em bị câm điếc đã là một thiệt thòi, lại không được hướng dẫn chung một giáo trình ký hiệu ngôn ngữ để dễ dàng giao tiếp, dễ dàng nắm bắt những kiến thức mới mẻ là thiệt thòi thứ hai. “Do vậy, cho dù khó khăn cũng phải xây dựng được giáo trình hướng dẫn ký hiệu ngôn ngữ chung cho trẻ câm điếc để các em dễ hòa nhập cộng đồng” - bà Nhiễu nêu quan điểm.

Ngay cả tôi, mặc dù là giáo viên câm điếc đã lâu nhưng cũng không hiểu hết nội dung diễn đạt của cô “thông dịch viên” ngôn ngữ câm điếc trong chương trình thời sự của kênh VTV.

Một khi không hiểu nội dung diễn đạt thì các em câm điếc sẽ rất khó tiếp cận những vấn đề xã hội. Vì vậy đã có những trường hợp đáng tiếc liên quan đến trẻ câm điếc vi phạm pháp luật. Cách đây không lâu, một phóng viên gọi điện thoại nói với tôi rằng người “thông dịch viên” do hiểu không đúng ký hiệu ngôn ngữ của một trẻ câm điếc nên em này đã bị tòa buộc tội nặng hơn. Riêng tôi, không ít lần phải mang theo nhiều giấy, bút vào tòa khi làm “thông dịch viên” cho trẻ câm điếc để vẽ hình minh họa trong trường hợp cần thiết.

Cô TRẦN THỊ NGỜI, Hiệu trưởng Trường Khuyết tật thính giác Hy Vọng 1 (TP.HCM)

Ký hiệu ngôn ngữ người câm điếc từng vùng, miền không do ai nghĩ ra mà là phát triển một cách tự nhiên bao năm trời từ những người câm điếc nên muốn thống nhất chung là rất khó. Không thể buộc người câm điếc vùng, miền này phải theo ký hiệu ngôn ngữ người vùng, miền nọ. Ở người bình thường, ngay cả cách phát âm giữa các vùng, miền cũng khác nhau.

Ngay cả nước ngoài cũng dùng ký hiệu ngôn ngữ biến thể chứ chưa thể sử dụng bộ ký hiệu ngôn ngữ chung dành cho người câm điếc. Nhưng nếu có một bộ ký hiệu ngôn ngữ thống nhất chung dành cho người câm điếc tại Việt Nam sẽ là cần thiết để giúp họ dễ hòa nhập cộng đồng.

GS-TS NGUYỄN VĂN HIỆP, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam

Do không được giáo dục giới tính, không được hướng dẫn kỹ năng sống nên trẻ câm điếc rất dễ bị xâm hại. Để bảo vệ các em, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi TP.HCM kết hợp cùng các ban, ngành liên quan xây dựng Cẩm nang ngôn ngữ, cử chỉ về giới tính tình dục và sức khỏe sinh sản. Cẩm nang này sẽ thống nhất các ký hiệu ngôn ngữ, cử chỉ để giáo viên dễ hướng dẫn, các em câm điếc dễ tiếp thu. Dự kiến năm nay sẽ triển khai thực hiện những nội dung trong cẩm nang.

Bà TRẦN THỊ NHIỄU, chuyên viên phụ trách các dự án thuộc Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi TP.HCM